Địa lý Phúc_Kiến

Khu thắng cảnh Vũ Di SơnSông Mân (闽江) tại Nam Bình

Phúc Kiến nằm ở vùng ven biển phía đông nam Trung Quốc. Phúc Kiến giáp với Chiết Giang ở phía bắc, giáp với Giang Tây ở phía tây, giáp với Quảng Đông ở phía tây nam. Ở phía đông và phía nam của mình, Phúc Kiến giáp với biển Hoa Đông, eo biển Đài LoanBiển Đông. Đường bờ biển của Phúc Kiến kéo dài 535 km theo đường thẳng. Tuy nhiên do có nhiều vịnh và bán đảo, đường bờ biển trên thực tế dài khoảng 3.324 km, chiếm 18,3% chiều dài đường bờ biển Trung Quốc. Các vịnh lớn tại Phúc Kiến là vịnh Phúc Ninh (福宁湾), vịnh Tam Sa (三沙湾), vịnh La Nguyên (罗源湾), vịnh Mi Châu (湄洲湾), vịnh Đông Sơn (东山湾). Phúc Kiến có tổng cộng 1.404 đảo ven bờ, tổng diện tích của các hòn đảo này là khoảng trên 1.200 km².[8] Các đảo chính là Hạ Môn, Kim Môn, Bình Đàm (平潭岛), Nam Nhật (南日岛), Đông Sơn (东山岛).

Địa hình Phúc Kiến chủ yếu là đồi núi, theo truyền thống được mô tả là "Bát sơn, nhất thủy, nhất phân điền" (八山一水一分田). Ở phía tây bắc, địa hình cao hơn với dãy núi Vũ Di tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Phúc Kiến và Giang Tây, trong đó, núi Hoàng Cương (黄岗山) với cao độ 2.157 m là điểm cao nhất tại Phúc Kiến, cũng là điểm cao nhất vùng Đông Nam của Trung Quốc. Vành đai núi Phúc Kiến từ bắc xuống nam chia thành dãy núi Thứu Phong, dãy núi Đái Vân (戴云山脉), [[dãy núi Bác Bình Lĩnh (博平岭山脉). Đất đỏ và đất vàng là các loại đất chính của Phúc Kiến. Phúc Kiến là đơn vị hành chính cấp tỉnh có nhiều rừng nhất tại Trung Quốc, với tỷ lệ che phủ rừng đạt 62,96% vào năm 2009.[9] Rừng tại Phúc Kiến có thể phân thành khu vực rừng thường xanh lá rộng cận nhiệt ở trung và tây bộ và rừng mưa cận nhiệt đới gió mùa ở đông bộ.

Các sông chủ yếu tại Phúc Kiến là Mân Giang (闽江) dài 577 km, Tấn Giang (晋江) dài 182 km, Cửu Long Giang (九龙江) dài 258 km và Đinh Giang (汀江) dài 220 km. Với lượng mưa phong phú, lưu lượng nước hàng năm của các sông trên toàn tỉnh là 116,8 tỷ m³ nước, riêng lưu lượng dòng chảy bình quân của Mân Giang (1.980 m³/s) đã lớn hơn của Hoàng Hà (1.774,5 m³/s). Đa số các sông suối có độ dốc lớn và chảy nhanh, có nhiều ghềnh thác, dự trữ thủy lực lý thuyết đạt 10,46 triệu kW, công suất lắp đặt đạt 7,0536 triệu kW. Tại vùng duyên hải, do có nhiều vũng vịnh nên có thể lợi dụng thủy triều để sản xuất điện, với 3000 km² diện tích chịu ảnh hưởng của thủy triều, dự trữ năng lượng thủy triều có thể khai thác là trên 10 triệu kW. Phúc Kiến có bốn đồng bằng lớn là đồng bằng Chương Châu, đồng bằng Phúc Châu, đồng bằng Tuyền Châuđồng bằng Hưng Hóa.

Phúc Kiến có khí hậu cận nhiệt đới ẩm gió mùa, khí hậu có lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa dạng. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 17-21 °C. Mùa đông tại Phúc Kiến khá ấm áp, nhiệt độ tháng 1 tại vùng duyên hải là 7-10 °C, tại vùng núi là 6-8 °C. Mùa hè nóng với nhiệt độ dao động từ 20-39 °C, chịu ảnh hưởng của nhiều cơn bão nhiệt đới. Giáng thủy hàng năm đạt từ 1.400-2.000 mm, giảm dần từ đông nam đến tây bắc.

Phân vùng

Thổ lâu Phúc Kiến

Mân Đông là một khu vực rộng lớn, bao gồm khu vực trung hạ du Mân Giang ở đông bộ và khu vực đồi núi ở đông bắc bộ Phúc Kiến, giáp eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông. Về mặt hành chính, vùng Mân Đông bao gồm Phúc Châu và Ninh Đức. Tại Mân Đông, toàn bộ Phúc Châu và hai huyện Cổ Điền, Bình Nam của Ninh Đức nói tiếng Phúc An (福安话). Quần đảo Mã Tổ do Trung Hoa Dân Quốc quản lý cũng thuộc vùng Mân Đông.

Mân Trung gồm Phủ Điền và đại bộ phận của Tam Minh. Trong vùng Mân Trung, các huyện Vưu KhêĐại Điền nói tiếng Mân Nam; các huyện khu Tam Nguyên, Vĩnh AnSa nói tiếng Mân Trung; tại Ninh HóaThanh Lưu nói tiếng Khách Gia; các huyện Thái Ninh, Tương Lạc, Kiến NinhMinh Khê nói phương ngôn Mân Cống (闽赣方言).

Mân Nam chỉ khu vực lưu vực Cửu Long GiangTấn Giang ở nam bộ Phúc Kiến, giáp với eo biển Đài Loan. Về mặt hành chính, Mân Nam bao gồm ba địa cấp thị Chương Châu, Tuyền ChâuHạ Môn. Vùng Mân Nam có nền kinh tế phát triển, còn được gọi là tam giác vàng Mân Nam. Các đảo Kim Môn do Trung Hoa Dân Quốc quản lý cũng thuộc vùng Mân Nam. Mân Nam là quê hương của một số lượng lớn Hoa kiều, là tổ tiên của đa số người Đài Loan. Người dân vùng Mân Nam nói tiếng Mân Nam.

Mân Bắc chỉ khu vực thượng du Mân Giang ở bắc bộ Phúc Kiến, phía đông nam của đoạn bắc dãy núi Vũ Di và phía tây bắc của dãy núi Đái Vân (戴云山脉). Về mặt hành chính, Mân Bắc bao gồm Nam Bình và một bộ phận của Tam Minh. Mân Bắc giáp với Ninh Đức ở phía đông, giáp với Thượng NhiêuƯng Đàm của tỉnh Giang Tây ở phía tây, phía nam đan xen vào Tam Minh, phía bắc giáp với Lệ Thủy của tỉnh Chiết Giang. Người dân Mân Bắc nói tiếng Mân Bắc.

Mân Tây thời cổ dùng để chỉ các châu quận ở cực tây của Phúc Kiến là Đinh châu (汀州), ngoại trừ khu thành Long Nham và bên ngoài Chương Bình, là nơi cư trú của người Xa, và là một trong tứ châu Khách Gia. Mân Tây là quê hương của nhiều người Khách Gia tại Đài Loan, Đông Nam Á và Tứ Xuyên. Hiện nay, Mân Tây dùng để chỉ Long Nham. Thổ lâu Phúc Kiến là một di sản văn hóa thế giới.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phúc_Kiến http://www.1.cn/fujian.asp http://www.chinadaily.com.cn/bizchina/2008-12/19/c... http://www.vos.com.cn/2010/01/01_145858.htm http://www.fjfao.gov.cn/cms/siteresource/article.s... http://www.fjfao.gov.cn/index/noDateCategory?id=51 http://english.forestry.gov.cn/web/article.do?acti... http://www.fujian.gov.cn http://www.stats-fj.gov.cn/fxwz/tjfx/0201009020028... http://www.stats-fj.gov.cn/tjts/tjgb/0201102230012... http://www.stats-fj.gov.cn/tjts/tjgb/0201202240027...